Thứ Hai, 25 tháng 6, 2012

Truyện Ngắn Của TIỂU TỬ



  Truyện Ngắn -Tiểu Tử

  

Cái miệng
Cái miệng có hai chức năng chánh: ăn và nói. Xưa nay ít có ai để ý đến những chức năng phụ của cái miệng – tiếng là phụ nhưng cũng không kém phần quan trọng – như : ngáp, ợ, ho, khạc, thở khi nào bị nghẹt mũi v.v…
Có lẽ tại vì nó…hạ cấp quá nên bị coi thường !
Và cũng tại vì có sự coi thường đó mà người ta chỉ chú trọng dạy trẻ con học ăn học nói thôi.
Thành ra, lớn lên, phần đông ngáp ơi ới không che miệng, ợ ồng ộc nghe chỏi lỗ tai, ho thẳng vào mặt người đối diện, còn khạc nhổ thì tùm lum bất cứ chỗ nào…
Trong chuyện phiếm này, tôi cũng theo "truyền thống" để chỉ viết về hai chức năng " ăn và nói " của cái miệng.
Ăn…Từ hồi còn nằm trong bụng mẹ, con người đã biết ăn ( Ông Trời sanh ra như vậy ! )
Mới lọt lòng, không ai dạy, kề vú vào miệng là đã biết…đớp (Về sau, khi đã thành nhơn, có đòi đớp như hồi bêbê là một…cái gì khác chớ không phải là ăn ! ) 
Thành ra " ăn " là một bản năng. Hễ đói là tự nhiên phải kiếm cái gì ăn, chưa biết rằng không ăn lần hồi rồi sẽ chết ( Ăn…hối lộ không nằm trong " diện " tự nhiên trời sanh này ! )
Khái niệm " chết vì không có gì ăn hay có mà ăn không được " chỉ đến với con người khi con người có đủ trí khôn. 
Khỗ nỗi, khi có đủ trí khôn, con người lại đòi " ăn ngon ", biết chê biết khen, biết chế biến món này món nọ để ăn cho " khoái khẩu ".
Cái " ăn ", vì vậy, đã chiếm…đỉnh cao của trí tuệ loài người, đến nỗi có câu "dĩ thực vi tiên" ( ăn trước đã ! ) và ở Việt Nam miền nào cũng quảng cáo rầm rộ " món ăn đặc sản " để làm…chảy nước miếng du khách 
( Ở Hà Nội bây giờ "chảy nước miếng hay chảy nước dãi " được gọi là " toát mồ hôi lưỡi " ! Từ ngữ cách mạng vốn…trừu tượng ! )
Trên thế giới, ngành du lịch xứ nào cũng giới thiệu thật nhiều về " cái ăn " ngay sau khi cho xem phong cảnh hùng vĩ hữu tình. Để thấy cái miệng tuy nhỏ xíu như vậy mà đã…đẻ ra chữ " ăn " thật to tổ chảng !
Trong từ ngữ thông thường, chữ " ăn " lúc nào cũng thấy như người lãnh đạo, nghĩa là đứng trên đứng trước nhiều chữ diễn tả một hành động một sự kiện – không biết để làm gì nhưng vẫn phải…đứng trên đứng trước ! – Ví dụ như " ăn quịt, ăn gian, ăn trộm, ăn cướp"
…Tiếng " ăn "…ăn nhậu gì với những chuyện " quịt, gian, trộm, cướp ", vậy mà phải có lãnh đạo " ăn " vào đó nghe nó mới…xuôi lỗ tai ! Rồi thì…ăn tùm lum, lúc nào ở đâu cũng thấy ăn: ăn giỗ, ăn cưới ( Hồi xưa còn nói "ăn đám ma " nữa ! ) ăn khánh thành, ăn lên lon, ăn Tết, ăn đầy tháng , ăn thôi nôi, ăn…hối lộ
…Chỉ có " ăn " thôi, vậy mà cái miệng sao mà " lắm chuyện " !
Bây giờ, xin nói đến " nói ".
Con người nếu sống một mình chắc không cần phải biết nói ! Thật vậy, biết nói để nói với ai ? 
Rồi, bởi vì con người cần sống với con người nên mới phải "nói " để hiểu nhau.
Mới đầu nói bằng…tay chân ( bây giờ gọi là " ra dấu " ) Lần hồi, chắc ra dấu…mỏi tay nên mới bày đặt tiếng nói ( Dầu sao, mỏi miệng vẫn…dễ chịu hơn mỏi tay ; cái trí khôn của con người bắt đầu…ló dạng ! ) 
Cái miệng , ngoài chức năng " ăn " của Trời cho, bây giờ có thêm chức năng " nói " do con người đẻ ra vì muốn người khác hiểu mình nghĩ gì muốn gì.
Con người mới sanh ra chưa biết nói, chỉ biết khóc ! Các nhà văn gọi đó là " tiếng khóc chào đời ".
Hay quá ! Thật vậy, nếu không có tiếng khóc thì làm gì có tiếng nói ? Rồi từ chỗ " oa oa " đó ọ ẹ riết rồi cũng ra chữ ra câu. Người ta dạy trẻ con học nói cho đúng cách, học nói cho có lễ độ, học nói cho thanh tao.
Có một điều lạ là những tiếng…chửi thề chẳng thấy ai dạy mà sao ai ai cũng biết và biết sử dụng đúng nơi đúng lúc một cách " tài tình " !
Ngoài những từ ngữ thông dụng – không kể chửi thề, dĩ nhiên – Nhà Nước Việt Nam còn dạy trẻ con hô khẩu hiệu, nói những lời " dao to búa lớn " theo…phong cách xã hội chủ nghĩa, nghĩa là nói để cho có nói chớ không phải nói để cho người khác hiểu mình nghĩ gì muốn gì. 
Cái "nói" – một chức năng của cái miệng – cũng bị làm…cách mạng ! Than ôi !
Nói về " nói ", con người nói thôi…đủ thứ. Nào là " nói thánh nói tướng "," nói láo nói phét ", " nói hành nói tỏi ", " nói trăng nói cuội "…Rồi " nói phang ngang bửa củi ", " nói dộng trong họng người ta", " nói trên trời dưới đất ", " nói mà cái miệng không kịp kéo da non ", " nói như con két "…v.v.
. Cái miệng nói nhiều hơn ăn, bởi vì ăn no rồi là không ăn được nữa chớ còn nói thì có bao giờ bị…no nói đâu để mà phải ngừng ?
Tóm lại, cái miệng là để ăn và để nói. Vậy mà chính cái miệng nó "hành" con người. 
Ông bà mình hay nói :" Bịnh từ miệng mà vào, Vạ từ miệng mà ra ". Đúng quá !
Tại vì mình ăn mới đem mầm bịnh vào người và tại vì mình nói mới đụng chạm sanh chuyện. Biết như vậy nhưng làm sao con người sống mà không ăn không nói ?
Ở Việt Nam, Nhà Nước ta đã thấu triệt cái " chân lý " vừa kể cho nên đã…phân loại cái miệng : miệng của nhân dân và miệng của Nhà Nước.
Cái miệng của nhân dân là cái miệng " ăn " còn cái miệng của Nhà Nước là cái miệng " nói ". Nhà Nước " quản lý " cái miệng ăn nên chỉ cho ăn vừa phải, đúng tiêu chuẩn, để nhân dân đừng…bị bịnh ! 
( Bệnh từ mồm mà vào, đúng thế đấy…Ta đã học tập và triển khai cái chân lý ấy từ thời…không có gì để ăn cơ ! )
Còn " nói " thì nhân dân không nên nói, bởi vì " nói " là mang vạ vào thân đấy thôi.
Để Nhà Nước nói, bởi vì Nhà Nước, đã là đỉnh cao trí tuệ của loài người, biết nói thế nào để không bao giờ phải…mang vạ vào thân. Và bởi vì cái miệng của Nhà Nước là loại miệng nói không sợ…mòn, không phải tốn tiền mua và dự trữ đồ phụ tùng thay thế.
Cho nên đừng ngạc nhiên sao ở Việt Nam chỉ nghe có Nhà Nước nói và nói không bao giờ…ngừng !
Ngoài ra, Nhà Nước vì thương dân nên khi thấy dân há miệng định nói là đưa tay bịt miệng ngay kẻo dân mang vạ vào thân, tội nghiệp ! Một cử chỉ…đẹp như vậy mà thiên hạ cứ…vo tròn bóp méo !
Nếu " ăn " là để sống thì " nói " là để cảm nhận rằng mình đang sống. Vậy mà người dân Việt Nam chỉ được phép dùng cái miệng để ăn thôi…

 ( Đọc Thêm )



Con Mẹ Hàng Xóm
Hắn tên là Cui, Đặng văn Cui. Thứ ba, nên người ta gọi là Ba Cui. Và vì nước da hắn ngâm ngâm, nên sau này khi đi lính quốc gia, bạn đồng đội đặt cho hắn biệt danh “Cui Đen”. Không phải để phân biệt với thằng Cui khác, mà là để cho dễ nhớ ! Bởi vì tiếng “Cui” một mình vừa cộc lốc, tối nghĩa, vừa khó nhớ nữa !

Thật ra, hồi đi làm khai sanh, ông già hắn đặt tên hắn là “Qui”, nghĩa là “Về”, vừa văn vẻ lại vừa nhắc nhở năm đó ông đưa vợ con trở về quê làm ruộng sau một thời gian dài “bôn ba bá nghệ” ở Sài Gòn Chợ Lớn. Nhưng không biết tại vì ông phát âm không rõ hay tại vì ông chánh lục bộ lãng tai mà tiếng “Qui” trở thành “Cui” trong sổ bộ !
Thành ra, trong gia đình và trong xóm người ta gọi hắn là “Qui”, còn trong trường và sau này khi ra đời, hắn vẫn mang cái tên “Cui” cứng ngắt đó và thường bị người ta hỏi “Cui là gì ?”. Coi vậy chớ tên “Cui” có vẻ như là cái tên... “tiền định”, bởi vì rất hạp với con người và tánh tình của hắn. Con người hắn không đến nỗi quá cục mịch nhưng, thật tình, cũng không có nét gì thanh tú hết ! Người gầy gầy,nước da đen đen như người Miên, mắt lộ, gò má cao, môi mỏng dánh, giọng nói thì nhọn hoắt. Vậy mà trong cử động đi đứng, hắn lại rất lanh lẹ, không... ù lì chút nào. Còn tánh tình thì cứng cỏi, thẳng răng, gan góc... như cây dùi cui !
Hồi đó – cái thời còn là lính quốc gia – hắn đánh giặc hăng lắm. Khi lâm trận, mặt nào địch bắn rát nhứt là có Cui Đen phóng tới. Làm như hắn không biết sợ là gì. Vậy mà suốt cuộc đời “binh nghiệp” của hắn, chưa bao giờ hắn bị thương ! Bạn đồng đội nói: “Chắc thằng Cui Đen nó có vô bùa !”. Hắn đánh giặc “hết mình” như vậy, không phải tại vì hắn có lý tưởng này lý tưởng nọ hay có ý thức chánh trị gì gì, mà tại vì hắn nghĩ rất đơn giản: “Nhà ai nấy ở.

Mắc mớ ông cha gì tụi nó mà tụi nó kéo vô đánh mình ? Rõ ràng là tụi nó muốn đánh chiếm xứ mình để đô hộ như tụi Tàu tụi Tây hồi đó. Mẹ bà nó ! Phải đánh chết cha tụi nó hết !”. Đánh giặc “chết bỏ” như Cui Đen vậy mà Trời không thương. Cho nên mới có ngày 30 tháng tư năm 1975... ... Được lịnh đầu hàng, hắn tức muốn ói máu ! Hắn cắn chặt môi, chĩa súng lên trời bắn như điên. Bắn hết đạn, hắn liệng súng vào đống binh cụ. Trước khi quay đi, hắn nhìn lại võ khí, ánh mắt câm hờn dịu xuống.

Hắn nhìn với cái nhìn của người đàn ông nhìn cô nhân tình lần cuối, nhưng hắn lại đưa tay lên trán chào như hắn chào người đồng đội vừa vĩnh viễn nằm xuống nơi chiến trường... Trong đời đánh giặc của hắn, hắn đã từng chào như vậy. Nhưng lần này hắn nghe như hắn đang chào vĩnh biệt một cái gì to lớn hơn, một cái gì quan trọng hơn, một cái gì quí giá hơn người lính cộng hòa chết trận. “Cái gì đó” hắn không định nghĩa được nhưng hắn cảm nhận được. “Cái gì đó” cũng bất thần lảnh một viên đạn vào đầu, cũng ngã gục xuống không kịp trối.

Nhưng, trong “cái gì đó”, hắn thấy rõ có hắn, có vợ con hắn, có bà con hắn, có đồng bào hắn nữa. Xưa nay, Cui Đen không biết khóc. Nhưng bây giờ, bỗng nhiên hắn nghe hai mắt mình xót xót... Một người bạn trong đơn vị chở Cui Đen về nhà bằng Honda. Nhà Cui Đen ở gần chợ Bà Chiểu, trong một hẻm ngắn nhưng rộng, xe hơi vào được. Đó là loại phố trệt, có sân trước sân sau, và tường rào cao cỡ đầu người. Cui Đen, vợ và hai con nhỏ, ở căn cuối cùng trong hẻm. Vợ chồng hắn ở đó từ thời chưa có con, nên cả hẻm đó đều biết hắn. Ở đây, người ta gọi hắn là “Ba Cui”. Ba Cui bước vào sân thấy cửa nhà đóng im ỉm.

Mở cửa vội vã, thấy đồ đạc còn y nguyên, kể cả chiếc xe đạp của hắn. Hắn bước nhanh vào trong, vừa bước vừa gọi lớn: “Lựu ! Lựu à ! Mẹ con em đâu ? Anh về đây nè !”. Im lặng. Im lặng kéo dài ra tới sân sau. Căn nhà bỗng như rộng minh mong... Trong cái trống vắng đó, Ba Cui nghe như muốn ngộp thở. Hắn trở ra nhà trước, kéo ghế ngồi. Bỗng hắn để ý đến một tờ giấy trắng xếp hai nằm dưới cái gạt tàn thuốc. Lấy lên xem, thì ra là thơ của vợ hắn.

Thơ viết vắn tắt: “Em và hai con di tản theo anh Sáu. Anh ở lại, nhớ nhìn kỹ Thẩm Thúy Hằng để mà sống. Em Lựu”. Đọc câu đầu, hắn nghe yên tâm vì anh Sáu – anh vợ hắn – là trung tá hải quân. Đọc câu sau, hắn “xì” một tiếng, bỏ lá thơ lên bàn rồi lấy tay vỗ lên đó nghe một cái bốp, miệng lẩm bẩm: “Đến nước này mà còn viết móc lò móc chảo !”. Nói như vậy, bởi vì Ba Cui vốn mê đào hát.

Hắn cắt hình mấy cô minh tinh trong mấy tờ báo Tết, lộng vô khuôn kiếng treo đầy tường. Người mà hắn thường ngắm say mê nhứt là Thẩm Thúy Hằng ! Ba Cui đốt điếu thuốc, vừa hút vừa nhìn quanh. Rồi theo thói quen, mắt hắn dừng lại ở khuôn hình người minh tinh mà hắn ái mộ. Cặp mắt quá đẹp ! Cái mũi quá đẹp ! Nụ cười quá đẹp ! Bỗng hắn nghĩ: “Chẳng lẽ trong cái chộn rộn sanh tử của mấy ngày này mà Lựu còn nghĩ tới chuyện con nít như vậy à ?”. Một lúc lại nghĩ: “À ! Mà xưa nay Lựu đâu có ghen về vụ này !”. Rồi hắn lại nhìn chầm chầm khuôn hình, miệng lẩm nhẩm: “Nhớ-nhìn-kỹ-Thẩm-Thúy-Hằng...

Tại sao phải nhìn kỹ ? Mà tại sao để-mà-sống ? Và tại sao lại gạch đít trọn câu này ? Chắc Lựu muốn nói gì đây !”. Hắn đứng lên, bước lại gần để nhìn. Nhìn một lúc, rồi tò mò, hắn nhắc khuôn hình xuống, lật xem phía sau: trên miếng gỗ ép dính bụi có nhiều dấu tay nho nhỏ. Hắn chạy xuống bếp lấy con dao rồi cạy bật mấy cây đinh gài miếng gỗ ép. Miếng gỗ được lật ra, dán dính ở mặt trong bằng băng keo là ba lượng vàng.

Ba Cui đứng ngẫn ngơ, quên mất điếu thuốc trên môi đang cháy dở ! Sau ngày 30 tháng tư là chuỗi dài... bận rộn ! Đi mết-tinh. Rồi họp rồi hội rồi học tập. Rồi họp rồi hội rồi học tập nữa. Khi tàm tạm yên, kiểm điểm lại thì những người trong hẻm không có ai đi di tản hết. Thành ra Ba Cui phải nói trớ là vợ con hắn về dưới quê “sống dễ thở hơn”.

Thời gian sau, lần lần người trong hẻm đổi nghề. Có lẽ cho hạp với thời cuộc, với cái gọi là “đổi đời” mà Nhà Nước cách mạng lúc nào “lên lớp” cũng nói. Cho nên thấy thầy Trân nghỉ dạy tiểu học ở phường Sáu, thầy giáo đó bây giờ... “tháo giày” đi làm thợ hồ. Thấy bác Năm thợ bạc bây giờ ngồi bán chuối chiên ở đầu ngõ. Thấy ông thầy chích hạ bảng “Y tá có bằng cấp” rồi sơn viết lại “Hớt tóc bình dân”. Thấy bà Ba “thớt thịt” nghỉ bán thịt heo ở chợ Bà Chiểu, tối ngày nằm nghe băng nhạc cải lương, để chồng con chạy áp-phe tuốt trong Chợ Lớn. Thấy ông “Chánh Ký” chuyên cho mướn xe ba bánh bây giờ bán hết dàn xe rồi ra đứng nấu mì cho thằng con có tiệm cà phê ở ngang hông chợ... vv.

Còn Ba Cui thì đi đạp xích-lô ! Một hôm, trong lúc đạp rề rề trước nhà thương để đón khách, Ba Cui bị xe bộ đội chạy loạn đụng gãy chân mặt. Hắn phải mang băng bột cả tháng. Lúc nào xê dịch cũng phải chống hai cây nạng gỗ. Hắn tức lắm ! Khi người trong hẻm qua thăm, hắn thường cầm cây nạng gõ vô ống băng bột cốp cốp, để nói: “Mẹ bà nó ! Hồi đó đánh giặc, tụi nó không bắn được tôi bị thương. Bây giờ yên rồi, tụi nó cũng ráng đụng cho tôi gãy chân, tụi nó mới nghe ! Quân chó chết !”. Hồi còn ở nhà thương, khi nhận hai cây nạng gỗ, hắn cặp hai bên nách rồi chĩa thẳng về phía trước như hai cây súng.

Mắt hắn trừng lên, hắn bắn bằng miệng: “Pằng ! Pằng ! Pằng ! Pằng !...”. Cho... đỡ tức ! Sau đó, hắn gỡ bỏ hai gù cao su của đầu nạng, để mỗi lần hắn chống đi có tiếng côm cốp khô khan sắc bén. Hay khi hắn nói chuyện, hắn gõ đầu nạng xuống mặt gạch nghe cành cạch. Cho... đỡ tức ! Hôm đi cắt băng bột, Ba Cui nói với đôi nạng gỗ: “Tụi bây chịu trận với tao bữa nay nữa là... lễ tất !”. Nào dè, sau khi cắt băng, chân mặt bây giờ ngắn hơn chân trái, mà chỗ xương gãy lại cong cong, thành ra chân bị thương đó bây giờ không còn chống chỏi mạnh như xưa nữa. Hắn tức giận, quăng cặp nạng vào góc tường, chửi lớn: “Mẹ bà nó !

Gia tài có cặp giò để đạp xích-lô mà bị như vầy thì còn làm ăn khỉ gì được ?”. Cô y tá nói nhỏ: “Tại số anh xui. Hôm đó anh nhập viện nhằm ca của ông bác sĩ ngoài đó...”. Hắn lầm bầm: “Mẹ bà nó !”. Rồi lò cò lại góc tường lượm đôi nạng lên chĩa thẳng về phía trước, miệng bắn lớn: “Pằng ! Pằng ! Pằng ! Pằng !...”. Mà lần này, hắn bắn đến ba bốn đợt nhưng sao vẫn chưa nghe hả tức ! Bỗng hắn thèm có khẩu M16 để hắn... ria một hơi... Về sau, Ba Cui sắm thùng đồ nghề rồi ngày ngày đạp xe ra góc đường gần Ủy Ban Nhân Dân ngồi sửa xe đạp. Và lúc nào cũng có đôi nạng gỗ, bây giờ đầu dưới có bịt sắt ! Cho nó... oai ! ... Thầy Hai Khuê ở khít vách Ba Cui, hồi thời trước làm thơ ký kế toán cho một hãng buôn ở Chợ Cũ, sau thời gian đổi nghề đi đan mây tre chắc chịu không nỗi nên... bán nhà.

Người chủ mới là đàn bà, cỡ tuổi Ba Cui, con người thanh tú, “coi được lắm”. Cô ta ở một mình. Làm việc ở đâu không biết, nhưng ngày nào cũng thấy đi thấy về bằng chiếc xe Vélo-Solex. Vì vậy, trong hẻm gọi cô ta là “cô Hai Sô-lết”. Cô Hai không giống người trong xóm. Thời buổi này mà cô ta vẫn ăn mặc như hồi đó, vẫn áo dài màu in bông trang nhã quần hàng trắng ống thon thon. Vẫn chút phấn chút son chút dầu thơm loại “xịn”. Cho nên người trong xóm cũng ngại, không muốn gần, mặc dầu thấy cô Hai Sô-lết cũng dễ thương, gặp ai cũng chào cũng hỏi. Riêng Ba Cui thì thẳng thừng: “Con mẹ này... Tôi coi không vô ! Cái thứ đàn bà ở một mình mà tối ngày son phấn... tôi nghi lắm”.

Cho nên, gặp cô ta mấy lần mà hắn chẳng hỏi thăm xã giao một tiếng. Chỉ gật đầu lấy lệ rồi đi luôn ! Một buổi tối, tên công an phường đi xe Honda tới nhà cô Hai Sô-lết với một anh bạn. Họ và cô Hai chào hỏi nhau, giọng điệu chứng tỏ họ đã quen thân nhau từ lâu. Ba Cui nằm trên ghế bố đặt ở phòng khách – hắn ngủ ở đây cho nó mát – nghe cái lối chào đón của “con mẹ hàng xóm” mà phát ghét. Hắn lầm bầm: “Mẹ bà nó ! Tao nói có sai đâu ! Cái thứ này... xài không được !” Bên kia, chắc họ bày biện ăn uống ở ngoài sân nên Ba Cui nghe rõ mồn một: - Biết bà chị neo đơn nên chúng tôi có mang đến thịt quay và phá lấu đây này. - Các anh bày vẽ. Hồi trưa, ở cơ quan, em đã bảo đừng mang gì hết. Em có bia nè. Em có tôm khô củ kiệu nè. Em có cua rang muối nè. - Đấy ! Đồng chí thấy không ? Tôi đã bảo là chị Tâm chu đáo lắm mà đồng chí không tin. - Ấy !

Đây là lần đầu, tớ cũng phải có cái gì để ra mắt bà chị chứ ! - Mình là người nhà với nhau hết, mấy anh đừng khách sáo. Em không thích đâu. - Vâng ! Thế thì cho tôi xin bà chị. Lần sau sẽ nghiêm túc hơn. Nằm bên nây, Ba Cui vừa lắng nghe vừa suy nghĩ: “Con mẹ này ghê lắm chớ không phải vừa. Thằng công an mà còn gọi bằng chị thì không phải thứ cóc cắn đâu. Theo cách nói chuyện của con mẻ thì con mẻ vô ra cơ quan Nhà Nước như đi chợ. Vậy là người của tụi nó rồi”. Nghĩ đến đó, hắn có ngay một thái độ: “Mẹ bà nó ! Mình phải coi chừng. Trong hẻm này toàn là dân ngụy không mà con mẻ chen vô đây làm gì ? Phải có ý đồ gì đó ! Mình phải cho lối xóm biết mới được”. 

Sau đó, cứ năm bảy hôm là cô Hai Sô-lết có nấu nướng ăn nhậu với bọn công an. Rồi công an kéo theo công an. Họ nói năng cười cợt như chỗ không người. Cả xóm đều biết. Cho nên mọi người đều dè dặt lẩn tránh cô Hai Sô-lết. Chỉ có Ba Cui là làm ngược lại. Trước đây, hắn không thèm chào một tiếng. Bây giờ thì hắn nghĩ: “Mình phải làm cho nó thấy là mình biết nó là ai. Mình phải đương đầu với nó để cho nó thấy rằng mình không sợ nó, mặc dầu nó là bà chằn hay ông kẹ gì gì. Mẹ bà nó ! Phải như hồi đó, tao ria cho một trận là chết cha hết !”. Cho nên, có hôm, nghe Ba Cui nhái giọng nửa Bắc nửa Nam của “tụi giải phóng” để hỏi cô Hai Sô-lết – hỏi trổng: - Thế nào ? Tốt chứ ! - Dạ... Cám ơn anh. Cũng tàm tạm. - Chà...

Dạo này thấy... béo ra đấy ! - Em thấy em cũng vậy, hà. - Có chứ ! Cứ ăn nhậu mãi là phì ra thôi ! Bỗng cô Hai nhìn thẳng vào mắt Ba Cui, nghiêm giọng: - Anh Ba à ! Mình ăn cây nào mình rào cây nấy, chớ anh ! Hắn phun nước miếng xuống đất, khoát tay rồi chống nạng cành cạch đi vô nhà. Thiếu chút nữa là hắn phun thẳng vào mặt con mẹ hàng xóm đó ! Cho bỏ ghét ! Càng ngày, cô Hai Sô-lết càng tiếp đãi “tụi nó” thường hơn, đông hơn và nhiều thành phần hơn. Có cả cán bộ đến bằng xe hơi có tài xế nữa ! Ngoài việc ăn uống – hình như chủ nhà có tài nấu nướng nên lúc nào cũng nghe “thực khách” hết lời khen ngợi thán phục – không biết họ có... “làm gì” nữa không ?

Ba Cui nhiều lần cố ý rình nghe nhưng chẳng thấy có gì khả nghi hết. Nhưng, đối với Ba Cui, nguyên cái sự ăn uống cười đùa thân mật thoải mái của “tụi nó” cũng đủ làm cho hắn “tức con mắt”. Còn con mẹ hàng xóm thì hắn dứt khoát: cái giống gì mà hắn... hửi không vô ! “Cái giống” đó cõng rắn cắn gà nhà, mở ngỏ đưa đường cho tụi ngoài đó vô xâm chiếm thống trị miền Nam rõ ràng mà nói là “đi giải phóng”. Mẹ bà nó ! Một đêm đó, cũng gần khuya, trong lúc bên kia, hai tên công an và gia chủ còn chuyện trò, bên nây Ba Cui tắt đèn nằm trên ghế bố nghĩ vẩn vơ chờ giấc ngủ, thì nghe tiếng xe hơi chạy vào thắng gấp trước nhà cô Hai. Hắn lẩm bẩm: “Giờ này mà còn kéo tới nữa !

Thiệt... cái lũ này...”. Nhưng sao không có tiếng mở cửa đóng cửa xe mà lại nghe có tiếng chân người phóng xuống. Vậy là thuộc loại xe “gíp” chớ không phải xe nhà. Lại nghe tiếng súng khua và tiếng lên cò lách cách. Ba Cui phóng nhanh lại cửa, lắng tai nghe. Giọng quen thuộc của tên công an phường vang lên: - Này ! Các đồng chí làm gì thế ? Một giọng lạ, nghiêm nghị: - Hai đồng chí hãy ngồi yên. Con này, đứng vào góc tường kia ! Tiếng cô Hai la: “Ối !”. Có vẻ đau. Tên công an la lên: - Này !

Nhẹ tay chứ đồng chí. Có vấn đề gì thì ta hãy từ từ giải quyết. Loạn à ? - Ừ ! Loạn ngay trong phường của đồng chí mà đồng chí còn hỏi nữa à ? Đồng chí hãy ngồi xuống ! Còn con này, quay mặt vào tường, đứng yên ! Không, tao bắn nát óc ! Rồi ra lịnh cho đồng bọn vào lục soát trong nhà xem “có tên nào ẩn nấp trong ấy hay có cất giấu vũ khí không” và “phải cảnh giác”. Không khí bên đó có vẻ căng thẳng.

Tên công an thấp giọng: - Chị Tâm đây là người của Thành ủy. Chắc đồng chí lầm người rồi. Không nghe trả lời. Ba Cui đoán bọn mới tới là bộ đội và “thằng xếp” này có vẻ coi thường hai tên công an. Một lúc sau, nghe: - Báo cáo đồng chí: không phát hiện gì cả. - Tốt ! Hai đồng chí ra ngoài. Im lặng. Rồi lại nghe giọng “thằng xếp”: - Các đồng chí có biết con này là ai không ?

Ngừng một chút. Chừng như để cho câu nói tiếp theo có hiệu lực hơn, bởi vì “thằng xếp” gằn từng tiếng: - Người ta biết nó là Trần thị Tâm, nhưng tên thật của nó là Nguyễn Kim Hoa. Nó được bọn ngụy cài vào hàng ngũ của ta từ ngày giải phóng. Chính nó bao lâu nay bí mật đưa tin cho lũ phản động đang ẩn nấp ở vùng biên giới để chống phá cách mạng. Ác ôn như thế đấy !

Lại ngừng một chút, rồi tiếp: - Bây giờ thì hai đồng chí về đi, để chúng tôi xử lý vụ này. Sáng mai chúng ta sẽ nói chuyện sau. Một lúc, có tiếng Honda của bọn công an rồ máy rồi chạy ra ngõ. “Thằng xếp” ra lịnh: - Con này ! Đi ngay ! - Anh cũng phải để tôi dọn dẹp mấy thứ này vô nhà rồi tắt đèn đóng cửa chớ ! - Ừ ! Nhưng khẩn trương lên ! Bên này, Ba Cui chống hai tay lên cửa, đầu gục xuống. Hắn cắn môi kềm xúc động. Hắn nghe ân hận vô cùng: “Cô Hai là người của mình mà lâu nay mình khinh miệt cổ như đồ phản quốc ! Còn đòi phun nước miếng vào mặt cổ nữa !

Mẹ bà nó ! Mình tệ quá ! Bây giờ làm sao xin lỗi cổ đây ?”. Trong đầu hắn bỗng hiện lên hình ảnh của cô Hai Sô-lết. Bây giờ, sao hắn thấy cô Hai đẹp quá, cao cả quá, rắn rỏi quá. Cô vẫn giữ nguyên nét ngụy, từ cái áo cái quần tới chút phấn chút son. Cô vẫn tự trọng chớ không làm ra vẻ lam lũ theo... thời trang cách mạng. Cô đáng phục quá !

Bây giờ mới hiểu câu nói “ăn cây nào mình rào cây nấy” của cô Hai. Phải rồi. Cô phải “rào” cho kỹ để rút tỉa tin tức cần thiết cho “Kháng Chiến Phục Quốc”, vậy mà mình đã nghĩ rằng cô là phường bợ đỡ chánh quyền ! Thiệt là bậy ! Bên kia, giọng cô Hai Sô-lết nghe rất bình tĩnh: - Rồi. Tôi xong rồi. - Mang gì thế kia ? - Bao quần áo, bàn chải đánh răng, khăn, lược. Nè ! Anh xét đi ! - Thôi ! Được ! Lên xe ! Xe rồ máy, sang số de rồi lùi ra hẻm. Bên nây, Ba Cui bỏ tay xuống, lắc đầu thở dài. Bỗng, một tiếng nổ chát chúa, tiếp theo là tiếng xe đụng vào tường rào rầm rầm rầm rồi im. Ba Cui giựt mình, đứng thẳng người lên, lắng tai nghe.

Tiếng người xôn xao ngoài hẻm: - Xe bộ đội nổ ! Xe bộ đội nổ ! - Nó đụng tường rào nhà bác Năm ! - Có ai sao không ? - Có ai bị gì không ? - Anh chị Năm với mấy đứa nhỏ có sao không ? - Không ! Không có sao ! Tụi này đang ngủ trong nhà. Ba Cui định mở cửa chạy ra coi nhưng nghĩ lại :“ Trong hẻm nầy, chỉ có mình mình là lính ngụy. đứng xớ rớ ở đó nguy hiểm .“ Bên ngoài vẫn nghe xôn xao : - Đứa nào chạy kêu công an coi bây ! Trời ơi ! - Lấy đèn pin rọi coi ! - Rọi đây nè ! Mầy rọi ở đâu vậy ? - Sao không thấy ai nhúc nhích hết vầy nè ! - Thấy ghê quá ! - Mầy rọi vô giữa coi ! Cứ ria ria ngoài nầy thì thấy khỉ gì được. Thằng... nhát gan quá mậy ! - Đưa đèn đây tao rọi coi. - Trời ơi ! Cô Hai Sô-lết chết banh xác trong nầy nè ! Ba Cui bỗng thở hắt ra, gục đầu vào tường, không nghe rõ gì gì nữa.

Làm như tiếng nổ vừa rồi làm cho hắn lùng bùng lỗ tai. Kinh nghiệm chiến trường cho hắn biết đó là tiếng nổ của lựu đạn, loại lựu đạn mà hồi thời còn “đánh giặc chết bỏ” hắn vẫn thường dùng để diệt địch. Bây giờ, cô Hai đã dùng nó để nói lên tiếng nói cuối cùng. Một-tiếng-nói-cuối-cùng... Hình ảnh cô Hai Sô-lết lại hiện về trong đầu Ba Cui, thật rõ, thật đẹp, nhưng thật hiên ngang, thật oai hùng, thật vĩ đại.

Trong bóng tối, hắn bỗng đứng nghiêm, trịnh trọng đưa tay lên trán chào. Xưa nay, hắn không biết khóc. Vậy mà bây giờ hắn bật khóc ! Không biết nước mắt ở đâu mà tuôn ra nhiều như vậy ? Mặc dầu một chân ngắn một chân dài, Ba Cui vẫn đứng thẳng, trong tư thế chào vĩnh biệt người đồng đội vừa tử trận, đứng lâu thật lâu... 
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;

       Sau 37 Năm Nhìn Lại
                                     Saigon bây gi
                                                                                                   BS Đ Hng Ng
 
Saigon bây gi không thy có người đp na! Xưa ra đường c thy người ta va chy xe va… ngoái đu li nhìn. Bây gi ra đường người con gái nào cũng trùm kín mt, mang v dài tay, găng tay kín mít, áo khoác sùm sp, đu đi mũ bo him, ch cha hai con mt lom lom qua kính bo h… !  trên cao nhìn xung người người dày đc, tng lung tng lung cun cun trôi đi, lâu lâu cng mũ bo him mt cái ri mnh ai ny đi, c như đàn kiến. Đi b trên đường nhiu khi gp người chào hi thân thin mà chng biết ai là ai, đến lúc như cht nh ra h mi g khu trang cười ln ln. May thay, con gái Saigon bây gi tuy che mt mà li h đùi! H mc qun short tht ngn ra đường bt k sáng trưa chiu ti. Nh đó mà cũng có th nhìn ra người đp! Có điu hơi nguy him cho giao thông công cng vì đường sá không thông thoáng như xưa. Áo dài thì khó mà tìm thy na ri- tr trên sân khu và sàn din thi trang. Con gái vì thế mà không còn yu điu, du dàng, tha thướt na. Ngay c nhng ngày l tết,  đường hoa Nguyn Hu rc r vy mà cũng khó tìm thy mt tà áo dài. Mi người tr nên hp tp, vt chc, căng thng hơn bao gi hết. Cái lý do vì sao mt áo dài ri phi trùm kín mít c người như vy thì ai cũng biết. Bi khói mù tri. Không khí hng hc. Môi trường đô th ngày càng xu đi. Cây xanh tàn ri. Cao c vùn vt bc lên! 
Saigon bây gi béo phì ngày càng tăng! Mt s phn vinh thc ch không phi gi to. Béo phì nhanh nh ph n và tr con. Các chuyên gia dinh dưỡng la ơi, báo đng hoài mà chng ai thèm nghe. Nghe chi cho mt. Các ca hàng fastfood c mc ra như nm. Ai cũng biết fastfood ti đâu, béo phì, tim mch, tiu đường, huyết áp… theo ti đó. Mà bnh tt càng tăng thì… càng tt ch sao. Thuc men, thc phm chc năng, qung cáo…n ào thì kinh tế càng phát trin. Thc ăn thc ung toàn hương liu, hoá cht, bt nêm các th làm cho chuyn bếp núc tr nên đơn gin. C xem TV thì biết. Người nào người ny già tr ln bé mt mũi bóng lưỡng, hí hng chp git nước ung thc ăn, nhy nhót mng vui tưng bng mi nơi mi lúc! 
Saigon bây gi cn th quá tri! Tr con nt mt đã cn th. Mu giáo tiu hc cn th tùm lum. Tim kiếng m ra tràn ngp, góc nào cũng có. “Ch nào r hơn tr li tin!”. y cũng nh vi tính, game online, TV… các th ngày càng hp dn. Thế gii nh trong lòng bàn tay. Tr con sướng như tiên. Đ chơi trên tri dưới bin khp hang cùng ngõ hp. Lâu lâu kêu có hóa cht đc hi. Khi biết thì mi th đã mun ri. K c thuc “cam” ni tiếng mt thi nay gây ng đc chì không thuc cha. L là người ta vn c tin và vn c nhm mt ung càng! Các loi sa “thông minh” dành cho tr con ngày càng nhiu, khiến các bà m không mun cho con bú sa mình na. Rõ ràng các thế h trước đây không được ung sa thông minh nên có v kém… thông minh! 
Saigon bây gi loãng xương hơi nhiu. Đi ngoài đường thy người ta l nh, t tp, tưởng gì, hóa ra đang túm tm đo xương! Có người t tế, vì sc khe cng đng, đem máy đo mt đ xương ra ngoài đường đo cho ông đi qua bà đi li. Ai cũng loãng xương k ít người nhiu! Sau đó ai cũng mua mt vài hp sa, mt vài loi thuc chng loãng xương là xong. 
Saigon bây gi đua nhau sa sc đp. Ai cũng sđược, không cn phi hc. Ai cũng nên sa, t cô hoa hu đến ca sĩ, người mu, cô hàng xén, anh doanh nhân. Bơm vú bơm mông, ct mt, x mũi, ch cm rào rào. Ai cũng thành người mu ca sĩ Hàn quc. Nhan sc r lên khiến các nhà thơ… bí không còn làm thơ được na! 
Saigon bây gi tr con bng dy thì sm. Không dy thì sm cũng ung! Mi th kích thích c rn rt chung quanh. Phim nh, internet, sách báo… các th. Thc ăn thc ung béo b các th. Khí hu nóng lên. T l phá thai v thành niên tăng mt cách đáng ngi. Tình trng vô sinh cũng nhiu. Ly d cũng mau. Người ta đua nhau m đ cho đúng gi hoàng đo. Tr sanh non, suy hô hp, thiếu dưỡng khí não, ln lên tâm thn cũng bn! 
Tóm li, sc khe cng đng  Saigon bây gi có nhiu điu đáng suy gm 
29-4-12 


Sài Gòn hin nay, tht vng nhiu hơn hãnh din

Tuesday, May 01, 2012    (trích báo Người- Vit)   ngun:    nguoi-viet.com
SÀI GÒN (NV) - Ln đu tiên ti Sài Gòn din ra mt cuc hi tho v “giá tr ca thành ph Sài Gòn hin nay” vi cái nhìn tht vng nhiu hơn hãnh din. Có người đã tri qua thi gian sng thi “Sài Gòn cũ” không ngn ngi bày t ni ngm ngùi luyến tiếc thu xa xưa
 
Trẻ em Sài Gòn chơi đùa trên Bến Chương Dương. Với nhiều người, Sài Gòn hiện nay “thất vọng nhiều hơn hãnh diện.” (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)
Cuộc hội thảo này do báo Sài Gòn Tiếp Thị tổ chức hôm 25 tháng 4 mang tựa đề “Người trẻ và đất hứa” cho thấy phần lớn cư dân Sài Gòn hiện nay không phải là dân “chính gốc.”
Ông Nguyễn Ðức Lộc, giảng viên trường Ðại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Sài Gòn (trường Ðại Học Văn khoa cũ) cho rằng hiện nay “ít ai dám vỗ ngực tự xưng mình là người Sài Gòn.” Trái lại, đa số cư dân Sài Gòn là người nhập cư từ nơi khác đến, trong đó có rất nhiều người đến để “đổi đời,” đặc biệt từ sau năm 1975 trở lại đây.
Một diễn giả thuộc Viện Sinh Học Nhiệt Ðới Sài Gòn, ông Ngô Văn Trí, tỏ ý tiếc về việc phá bỏ nhiều kiến trúc thơ mộng của Sài Gòn xưa. Theo ông, những hàng cây sao, cây dầu tỏa bóng mát trên đường Tự Do cũ (nay là đường Ðồng Khởi) của một Catinat yêu kiều nay chỉ còn là “hoài niệm.”
Ông nói: “Vẻ đẹp xưa với những kiến thức cổ kính đã dần mất đi để thay vào đó là những tòa nhà cao tầng.”
Trong số các diễn giả góp ý về sự đổi thay của con người ở Sài Gòn, nhận định của ông Trần Bảo Minh, giám đốc điều hành công ty thực phẩm Á Châu tại Sài Gòn khiến cử tọa kinh ngạc. Người nghe không ngạc nhiên về nhận định “không mấy gì mới” của ông, nhưng ngỡ ngàng vì những lời lẽ hùng hồn, đanh thép của một người trẻ khi chỉ trích khuynh hướng chạy theo đồng tiền của người Sài Gòn hiện nay.
Ông nói: “Ba tôi là một cán bộ tập kết đưa tôi về Sài Gòn sống với những người bạn của ông đều là cán bộ nhà nước. Tôi ngưỡng mộ những người này vì ai cũng làm việc không kể giờ giấc, hy sinh quyền lợi của bản thân mình vì lợi ích chung. Nhưng chỉ vài năm sau, khi tôi vào trường đại học, gặp lại các ông ấy thì tôi thấy họ thay đổi ghê gớm. Tư hữu, tư lợi nẩy sinh, họ chiếm nhà, chiếm đất, lấn đất làm nhà…”
Cử tọa còn choáng váng khi nghe diễn giả, giám đốc Trần Bảo Minh, thú nhận ông mang cảm giác “lạc lõng” khi đứng giữa Sài Gòn sau chuyến du học từ Úc về. Ông Trần Bảo Minh cho rằng xã hội Sài Gòn đang “phân hóa dữ dội vì mọi giá trị của con người đều dựa vào thước đo của đồng tiền.” Ông còn nói rằng, “Ðồng tiền có giá trị vô song trên đất Sài Gòn hiện nay và đồng tiền lôi cuốn giới trẻ rơi vào vòng xoáy của trận cuồng phong đầy bất an.”
Ý kiến của giám đốc Trần Bảo Minh đã được sự tán đồng của ông Nguyễn Ðức Lộc khi cho rằng các bậc cha mẹ hiện nay hết sức lo lắng cho thế hệ con em trong “vòng xoáy của đồng tiền – một thế lực và một quyền lực chi phối, thống trị mọi thứ.”
Trong khi đó, theo họa sĩ trẻ Vũ Ðình Giang thú nhận đã từng lâm vào cuộc khủng hoảng tinh thần cũng như nhiều người khác thuộc giới trẻ ở Sài Gòn vì đồng tiền làm đảo lộn mọi thứ.
Bài tường thuật của báo Sài Gòn Tiếp Thị về cuộc hội thảo đặc biệt này còn ghi nhận lời tâm sự của nữ phó giám đốc công ty Ocean Eyes, Ðoàn Phi Nga, nói rằng từng “ôm một cục tiền về nhà và chợt nhận ra mình không còn gì hết.”
Sau phần lớn những lời tâm sự não nùng từ cuộc hội thảo, cũng có diễn giả đưa ra một số “lối thoát” trước cử tọa, chẳng hạn như “tìm cách thoát khỏi đám đông, tìm cách gây lại sự tự tin” v.v…
Tuy nhiên, không ai nói được nguyên nhân vì sao Sài Gòn bây giờ làm nhiều người thất vọng hơn là hãnh diện. Vì chẳng lẽ nói rằng sự thay đổi đáng tiếc của Sài Gòn hiện nay là bởi “tàn dư của chế độ Sài Gòn cũ từ trước năm 1975 để lại”? (PL)



Tản mạn: SÀI GÒN

08THÁNG 5
BẠN TRẦN ỨNG LONG VỪA POST LÊN MỘT BÀI THƠ  THẬT DỄ THƯƠNG, LÀM GỢI  NHỚ .. ĐẤT SÀI GÒN. BTX CŨNG CHIA SẺ TẢN MẠN SÀI GÒN, NỘI DUNG VÀ Ý TƯỞNG RẤT ĐÁNG ĐƯỢC CÁC BẠN QUAN TÂM…


SÀI GÒN
Sài Gòn ấm áp dễ thương
Cho ta nuôi tình khờ khạo
Sài Gòn trăng gầy vai áo
Đêm về nghe ngóng mùa sang
Sài Gòn thương nhớ lang thang
Rộn rã một ngày nắng sớm
Sài Gòn giấc ngủ chiều muộn
Đường vui cây lá xanh xanh
Sài Gòn phải vậy không anh
Rất nóng một trưa tháng sáu
Rất lạnh một ngày mưa bão
Rất hiền một tôi mười hai
Sài Gòn thương mấy năm dài
Bỗng một ngày kia thấy ghét
Đường rộng phố đông nhôn nhịp
Đi hoài chẳng gặp được nhau
Sài Gòn dễ  ghét gì đâu
Ngu ngơ mối tình thầm lặng
Sài Gòn chợt mưa chợt nắng
Yêu người khi có khi không
Đường xa mỏi quá đôi chân
Ước gì Sài Gòn bé lại
Ước gì hoa hồng anh hái
Rơi vào cửa số nhà anh
Sài Gòn lạ quá nghe anh
Em không tìm ra địa chỉ
Có thương nhớ lắm cũng đành
Kiếp TẤM trong lòng thành thị
Sài Gòn thật thà bình dị
Người dưng khác họ cũng gần
Đó đây phố xá rối rắm
Bao giờ em mới gặp anh……
Sưu tầm từ INTERNET
 
TẢN MẠN SÀI GÒN
Sài Gòn – đối với đa số dân Sài Gòn chính hiệu không phải là ”thành phố 10 mùa hoa”, ”thành phố mang tên Bác”, hay thành phố ”tôi mất người như người đã mất tên”, …
Sài Gòn hiền lành hơn thế nhiều, và dân Sài Gòn vốn vẫn thờ ơ với chính trị, nhất là thứ chính trị Salon vô bổ nhiều lời lẽ thiếu tính thực tế.
Dân Sài Gòn chính hiệu ”con nai vàng” chẳng bao giờ gọi Sài Gòn là thành phố Hồ Chí Minh. Không nhất thiết là vì lý do chính trị. Thằng Tí thằng Tèo trong mắt bà ngoại trăm năm vẫn là thằng Tí thằng Tèo, bất kể địa vị xã hội của nó là gì. Tôi có nói chuyện với vài bạn trẻ ở miền Bắc mới sang Mỹ, nghe họ dùng ”thành phố Hồ Chí Minh” để nói đến Sài Gòn, thấy ngưa ngứa thế nào ấy, dù tôi chẳng có lý do gì chính đáng.
Sài Gòn, dù trong thời buổi khó khăn nhất, vẫn như một cô tiểu thư đài các, đỏng đảnh đôi chút mà dễ thương thiệt nhiều.
Nhắc đến Sài Gòn người ta hay nhắc đến mưa, nhưng tôi lại nhớ dai dẳng cái nắng gay gắt của Sài Gòn.
Nhà tôi ở một con đường nhỏ, trưa hè đặt cái ”lưng dài vai rộng” xuống nền gạch bông mát lịm ngắm bầu trời xanh ngắt, gió nhẹ hiu hiu, thì không có nơi nào trên quả đất này cho cảm giác thanh bình hơn.
”Một ngõ vắng xôn xao Nằm trong lòng phố lớn …”
Khác với Hà Nội, không gian Sài Gòn rất thoáng, chí ít là cách đây gần 20 năm trước. Không gian của một buổi trưa hè hiu gió còn thoáng hơn vạn lần. Tôi luôn có cảm giác mình có thể bay bổng lên, thò tay với cụm mây bồng bềnh trêu ngươi.
Tuy thế, cái không gian ấy không bao giờ làm ta cảm thấy lạc lõng. Thỉnh thoảng những tiếng rao của người bán dạo nghe nao nao, cuộn cả buổi trưa hè thành một miếng bột bánh bèo trắng phau với ít đậu xanh, mỡ hành, nước mắm đường ngọt lịm.
Từ ve chai, bánh bao chỉ, chè đậu xanh bột báng nước dừa, kẹo kéo, tàu hủ, đến mì gõ đều có nguời mang đến tận cửạ Có rất nhiều tiếng rao mà đến bây giờ tôi vẫn không hiểu nghĩa, nhưng nghe cái cung nhạc ấy thì biết ngay là họ bán cái gì.
Người Sài Gòn cũng thoáng như không gian Sài Gòn vậỵ Không đâu có thể dễ có nhiều bạn, và bạn không tồi, như ở Sài Gòn. Không chỗ nào trên đất Việt Nam người ta sống năng động và khoáng đạt hơn ở Sài Gòn.
Trước khi bàn chuyện ”người lớn” này, xin mạn phép quay lại chuyện thằng Tí thằng Tèo. Ðối với một thằng Tèo Sài Gòn chính gốc con nhà nòi thì Sài Gòn dĩ nhiên là bự hơn một buổi trưa hè.
Sài Gòn là những chiều tụ tập bấm chuông nhà người ta, cho đến khi nghe chửi ”D.M. tụi bay con cái nhà ai mất dạy bấm chuông wài dzậy” thì mới chịu vắt giò lên cổ chạy.
Sài Gòn là các hồ bơi Lao Ðộng, Chi Lăng, Nguyễn Bỉnh Khiêm, là mấy củ khoai mì nóng hổi với dừa nạo, là nước mía lạnh, là ốc dích ốc táng, là bắn bi ca-de với những câu đồng dao khó hiểu như thần chú: ”lang cang báng dội ăn tiền”. Nói sai hay nói thiếu một chữ là đánh nhau chí tử để rồi ngày mai lại càu nhàu chơi tiếp.
Sài Gòn là những buổi tối cúp điện, tụ họp ca hát hay vừa hồi hộp vừa thích thú nghe và kể chuyện ma như chính mắt mình thấy hôm qua.
Sài Gòn là những con diều làm đi làm lại, treo thêm cả cái móc câu để cắt dây diều khác; là dế hộp quẹt thổi phù phù ”đá bắt xác”; là chùm ruột chua ngọt, những cùi thơm, cóc ổi ngâm cắm que cà rem ”đa năng” không biết đã được dùng lại bao nhiêu lần.
Lớn lên một tí, Sài Gòn là cô bé hồi hộp chờ thằng Tèo hái cho cả cành phượng về ép làm bướm; là hàng điệp trải thảm vàng rực trên cao và dưới đất ở trường phổ thông; là quán cà phê từng buổi đón em về.
Xin trích đoạn một bài hát tôi viết đã lâu, đặt tên (rất tự nhiên) là ”Lâu Lâu”:
”Lâu lâu ngồi nhớ hồi xưa
Buổi trưa thường hái trộm me
Thằng leo, thằng đứng làm thang … …
Lâu lâu ngồi nhớ hồi xưa
Phượng cao mấy cũng trèo lên
Chỉ vì cô bé mắt tròn xoe, … mắt tròn xoe!
Sài Gòn đáng yêu lắm! Nó đơn giản và khoáng đạt, không bao giờ cần cái văn vẻ ”màu mè ba lá hé, không cần các suy nghĩ tự tôn ra vẻ triết gia hướng nội, để phải miệt thị kẻ khác quan điểm.
Sài Gòn nhìn cuộc sống trong veo như cái không gian bao la, phóng khoáng đang bảo bọc nó hàng ngàỵ
Sài Gòn còn là thành phố của sự đối lập: giữa những biệt thự kín cổng cao tường và đám nhà ổ chuột trên kênh hôi hám; giữa văn minh đô thị và những tiếng chửi thề; giữa sự ồn ào bụi bặm và không gian im lắng thanh tao. Nổi bật hơn tất cả là sự đa dạng vô cùng của con người Sài Gòn. Ðặc biệt là họ không sống ”như đã từng được sống”, mà luôn ”sống như chưa được sống bao giờ”.
Ẩn mình sau các hàng bông giấy, dây thủy tiên chói đỏ, là những ngôi biệt thự lúc nào cũng kín cổng. Không ai biết những người sống trong đó làm gì, là ai, và cũng chẳng ai thật sự quan tâm… ngoại trừ bọn thằng Tí thằng Tèo.
Bọn nhóc chúng tôi thường có rất nhiều các truyền thuyết về những người sống trong mấy ngôi nhà ấy.
Ở đầu ngõ nhà tôi cách đây khoảng 20 năm có một ngôi nhà như thế, chỉ hơi khác là hai cánh cửa sắt to đùng lại thấp lè tẹ Mỗi chiều có một anh chàng vác ghế đẩu cao ngồi tì tay lên cửa trông ra đường. Gã chẳng bao giờ cạo râu cắt tóc. Mặc dù nắng chiều rạng rỡ xóa bớt phần nào sự ma quái, bọn tôi vẫn chẳng dám đến gần ga.
Người ta có rất nhiều ”lý thuyết” khác nhau về gã: nào là người yêu bỏ đi Mỹ, bị công an lấy mất gia tài, vân vân và vân vân. Cuối cùng hình như hắn chỉ giả điên để trốn nghĩa vụ quân sự, đến khi hết tuổi người ta thấy hắn cạo râu, cắt tóc ngắn chờ ngày xuất cảnh.
Dù gì thì gì, những ngôi biệt thự vẫn là nguồn cảm hứng vô tận cho hàng tỉ câu chuyện mê li rùng rợn bọn tôi truyền miệng mỗi tối cúp điện.
Chỉ cách những tòa lâu đài ấy vài trăm mét là một xóm lao động nghèo với những ”truyền thuyết” kiểu khác hẳn: truyền thuyết về các ”anh hùng” du đãng như trong tiểu thuyết Duyên Anh. Có lần một trong những anh hùng nổi tiếng nhất ”xóm Chùa mang dao đứng giữa ngã Năm thách đấu công an phường. Cuối cùng một anh công an nhảy vào đánh tay đôi với hắn và buộc phải dùng súng hạ hắn.
Ði thêm khoảng trăm mét nữa là đến con rạch thúi hơn cầu tiêu công cộng ở Ðại Học Bách Khoa tỉ lần. Vậy mà tôi vẫn từng đi câu cá bống, vớt trùng chỉ với lũ bạn. Câu cả ngày được 2 con cá nhỏ hơn ngón tay út. Chỉ có trùng chỉ là lần nào cũng vớt được rất nhiều, làm mấy con cá Tàu nhà tôi ăn sình bụng bơi lặc lè kéo theo dây phân dài cả thước.
”Xóm” tôi có khá nhiều nhà có piano. Chiều chiều nghe lũ nhỏ tập từ Methode Rose, Hannon đến Classic 3, từ sòn đô sòn đến Tempest. Lẫn vào trong đó luôn là tiếng chửi thề của bà Tư nhà bên cạnh. Có lẽ chẳng có món ”xí quách” nào… xí quách hơn sự pha tạp của hai loại âm thanh ấỵ
Buổi chiều ở Sài Gòn đối lập hẳn với buổi trưa yên tĩnh. Dường như cái dìu dịu của nắng ấm làm người ta có nhiều năng lượng hơn. Chí ít là bà Tư lúc nào cũng có thừa năng lượng vào buổi chiều Bà chửi từ ông Tư tới thằng con mất dạy Ông Tư thì chẳng nói lại nhiều lời trừ khi mới nhậu xong. Chai rượu đế gò đen (chứ hổng phải ổng) vác dao bửa củi dí vào cổ bà vợ to béo, gã con trai thì vừa can vừa … đục luôn ông già, trong lúc đó tiếng Tempest vẫn vang vang ngắt quãng.
Ðiểm lạ (!?) nhất là tiếng Tempest vài năm sau biến mất, còn vợ chồng ông bà Tư vẫn sống ”vui vé với nhau như thế …
Tính đối lập của Sài Gòn rõ nét nhất là vào buổi tối.
Người ta đã viết rất nhiều về ”Hòn Ngọc Viễn Ðông” và tính phân chia giai cấp khắc nghiệt của nọ Ðó là trước 75. Sau giải phóng cái danh hiệu Hòn Ngọc Viễn Ðông bị Bangkok cướp mất, nhưng tính đối lập của Sài Gòn chẳng ai cướp nổi.
Sài Gòn không bao giờ ngụ Khoảng 9, 10 giờ đêm là các vũ trường bắt đầu hoạt động. Bọn con nhà giàu tí tởn hẹn hò dream, LA, su 100, quần xẻ, váy cao, phóng vù vù qua các đường Nguyễn Huệ, Ðồng Khởi, Hàm Nghị … sau đó vọt đi mấy cái Discoteques vang bóng một thời như Thái Sơn, Cadillac, Queen Bees, … (nay thì Thái Sơn không còn nữạ).
Phong trào đua xe thì Sài Gòn luôn đi đầu. Thủa chưa có nhiều xe gắn máy thì bọn choai choai đã biểu diễn đi xe đạp một bánh xoay mòng mòng hàng đêm trước nhà hát lớn. Ðến khi có xe gắn máy nhiều rồi thì cả đội ”Bồ Câu Trắng” cũng chẳng bị ai ngán. Hơn nữa bị giam xe thì một bữa chân gà rút xương ở Hàm Nghi là lấy xe ra cái rụp.
Khuya hơn nữa thì gái “Ca Ve” tràn về các quán cơm tấm, mì xe để ”đá đèn” (ăn đêm). Bọn dân quậy bao gồm lũ nhóc mới lớn lẫn dân giang hồ thứ thiệt cũng tham gia đá đèn la hét đến 3, 4 giờ sáng.
Cùng khi đó các em nhỏ bán vé số cũng hoạt động cật lực. May mà vớ phải dân chơi trúng quả nó mua cả cọc thì ngày mai không phải lo tiền ăn. Cựu chiến binh, thương phế binh thì vác đàn hát ”Phố Ðêm”, cay đắng xin từng đồng của lũ nhỏ mặt búng ra sữa chưa bao giờ hiểu hai chữ ”mất mát” nghĩa là gì.
Ðến 3, 4 giờ sáng, khi lũ dân chơi đã hoàn toàn mệt lử lũ lượt ra về, thì dân lao động bắt đầu một ngày mớị Xích lô, ba gác chở rau thịt ra chợ bán. Các lò bánh mì mắt đầu xay bột trét bơ nướng bánh thơm lừng. Mấy chị bán cà phê vỉa hè cũng bắt đầu đun nước, pha cà phê vợt cho gã xích lô mới tỉnh ngủ mắt vừa nhắm vừa mở vừa tán tỉnh.
Mùi mồ hôi lẫn với mùi bơ, mùi men, mùi khói SU 100 dần biến, lẫn với mùi không khí ẩm mát tinh sương tạo ra ”mùi Sài Gòn” buổi sáng ở các khu phố chợ rất đặc trưng.
Dân Sài Gòn quái chiêu lắm, lúc nào cũng than thiếu tiền, nhưng không sống tằn tiện bao giờ! Họ hào hiệp với bản thân và bè bạn; và họ luôn tìm được cách kiếm tiền.
Nhiều người bảo tôi rằng dân Nam Bộ được thiên nhiên ưu đãi, sống hôm nay khỏi lo ngày mai, nên họ sống rộng rãi hơn dân miền Trung và miền Bắc.
Có lẽ đúng. Nhưng còn cái gì đó hơn thế nữa! Kiểu ăn xài ”xả láng sáng dậy sớm”, dù nghèo rớt mồng tơi, dường như ăn vào máu của dân Sài Gòn, ăn vào không khí họ thở hàng ngày, ăn cả vào cái văn hóa hổ lốn cẩu xực của họ.
Dĩ nhiên để ăn xài thì đầu tiên phải kiếm ra tiền. Kiếm tiền thì có lẽ không đâu có nhiều cách như Sài Gòn. Trong thời còn ăn bo bo, gạo tổ đỏ lòm, thời dân Hà Nội còn ganh nhau từng cái khung Chiến Thắng, lốp Phượng Hoàng, hộp sữa cân đường ”tiêu chuẩn”, thì dân Sài Gòn đã bắt đầu nuôi heo lậu, quấn thuốc lá Lạng Sơn pha lá dừa, làm pháo giả, bán thuốc Tây ”bột năng” đầy ngoài chợ … hiển nhiên một phần là do ưu thế xa ”trung ương”, nhưng phần chính là do dân Sài Gòn sống rất ”năng động”.
Những năm 79, 80 mà thấy anh nào bị cối kẹp nách, mặt mũi lấm lét ở chợ Nguyễn Hữu Cầu thì biết ngay là hắn buôn thuốc Tâỵ Sau khi chợ thuốc Tây bị dẹp thì đường Nguyễn Hữu Cầu biến thành cái chợ trời đầu tiên của Sài Gòn sau 75. Ôi thôi thì quần zin áo pun, đồ Mỹ lẫn đồ chợ Lớn, bếp điện Liên Xô dây Gò Vấp, … Ở Sài Gòn cái gì bán được là có người bán. Ðừng hòng mà mua được đồ xịn nếu mà không quen biết hay hiểu biết. Nhiều người tự thị là ”rành” nhất bị lừa mà vẫn còn hí hửng. Ðó là chưa nói đến giá cả trời ơi. Tôi thường tự hỏi ai cũng bán hết thì lấy ai ra mà mua. Tiền đâu ra mà mua. Thế mà chợ lúc nào cũng đông. Ðúng là Sài Gòn!
Nếu không thích cảnh chợ búa ”gần mực” thì người ta quấn thuốc lá, nuôi heo với cơm thừa canh cặn pha cám lậu ở ngay trong nhà. Chuồng heo phải lau rửa ít nhất một ngày hai lần, sợ hôi thì ít, mà sợ công an phát hiện thì nhiều. Lái heo bốn rưỡi sáng đã mang xe ba gác đến chợ. Bọn lái heo lậu giết heo còn giỏi hơn công nhân chuyên nuôi heo ở Cầu Tre sau này. Chích điện con heo chỉ kêu cái ”éc” là chết ngoẻo tò te, xẻ làm bốn mất độ mươi phút, sáng hôm sau bà con có thịt heo tươi bán ở chợ.
Khi xí nghiệp nước đá Sài Gòn chưa ra đời thì nhà nhà làm đá, người người bán nước đá ”Cho con 2 cục đi dì ơi!” là câu cửa miệng trưa hè của dân Sài Gòn. Tiền điện thì vừa đắt cứa cổ vừa phải có tiêu chuẩn. Mua cả cái tủ lạnh chuyên làm đá bỏ mối tháng cho các quán cà phê vỉa hè cũng chỉ đủ tiền ăn trưa cho gia đình là giỏi.
Người ta còn buôn cả những thứ tưởng chừng như chẳng có người mua vào thời đó như pho mai Liên Xô thúi hoắc, bánh kẹo Vinabico, rượu XO pha rượu lúa, nước lã và cồn…
Ðến giữa và cuối thập niên 80 thì cơ hội kiếm tiền còn nhiều gấp bội. Sinh viên học sinh nghèo thì đi dạy thêm, quen biết hơn tí nữa thì đánh hàng Viễn Dương, hàng Ðông Âu, buôn thuốc lá Campuchia, mua bán xe gắn máy kiếm vài chỉ dẫn ”ghế đi chơi dễ như bỡn. Bọn Tèo kinh doanh còn buôn cả đất đai, làm xây dựng kiến tiền tỉ khi còn chưa ra trường. Không nhất thiết phải chúi đầu vào học kiếm suất đi Tây. Sống cái đã, ngày mai là chuyện của tương lai!
Kể cả các thầy dạy luyện thi đại học cũng biết làm ăn ra trò: xây thêm nhà mở lớp học, có cả lớp học máy lạnh cho con nhà giàu học riêng một lớp năm bảy đứa. Các thầy nổi tiếng rất biết marketing, dạy cả lớp giỏi lấy tiền ít để bọn nó thi thủ khoa mang danh tiếng cho thầy, chia lớp ra làm cả chục tầng tùy trình độ.
Các chị các cô khéo tay thì làm bánh, làm hoa giả, pha nước hoa bán đầy đường Ðồng Khởi, làm kem dừa, kem chuối tăng thu nhập gia đình.
Ðừng tưởng dân Sài Gòn chỉ lo làm ăn không đọc sách. Sài Gòn có vài trăm tiệm sách cũ mà dân nghiền sách nhẵn mặt. Từ sách Giải Tích Hàm của Lê Hải Châu, sách Tuổi Hoa trước giải phóng, chưởng Kim Dung, đến hình ảnh sách báo khiêu dâm của Mỹ, HongKong hay báo Toán Học Tuổi Trẻ, Kvant đều có cả.
Nhân chuyện buôn thuốc, tôi có thằng bạn đi Tây Ninh buôn 2 cây thuốc Zet bị bắt tịch thu luôn cả cái xe dream. Rõ là ngu ! Thằng cu phá phách kinh khủng, nhưng cũng vui tính ra phết. Có lần ngồi uống cà phê hắn bảo cô bán hàng: ”Liên ơi cho anh mượn sợi dây thun.” – ”Chi dzậy anh?”, Liên hỏi. Nó bảo: ”để anh thắt ống dẫn tinh”. Cô bé mặt đỏ lừ không biết có bỏ cái gì vào ly cà phê của nó không. Sài Gòn là thế đấy, muôn người muôn mặt, đa dạng vô cùng!từ hôm quá, “còn chút gì để nhớ”, “truyện cổ tích dành cho người lớn” …
”Lòng em như chiếc lá khoai
Ðổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu …”
Hay Tèo Bùi Chí Vinh:
”Cô gái ơi anh nhớ em,
Như con nít nhớ cà rem vậy mà!
Như con dế trống đi xa,
Lâu lâu lại nhớ quê nhà gáy chơi
Con dế thường gáy một hơi,
Còn anh gáy hết … một thời con trai, …”
Ðến đây tôi chợt nhận ra rằng viết về “một thời để nhớ”, về những kỷ niệm êm đềm của tuổi thơ thì rất dễ, dễ đến mức cái thằng văn dốt chữ nát như tôi cũng xổ nho được vài dòng.
Khi viết cái gì ít vô thưởng vô phạt hơn một chút thì phải bắt đầu nhìn trước ngó sau, câu chữ trúc trắc, ý vẫn tràn nhưng sợ hiểu sai hiểu lệch, lại phải tránh chính trị chính em …
Tôi đã định dừng ở đây vì câu chuyện đã nhạt dần đi, cái hào hứng ban đầu của bạn đọc chắc cũng không còn nồng nhiệt nữa. Thế nhưng chẳng thể để lại trong lòng bạn đọc ấn tượng về một Sài Gòn với 2 cây thuốc Zet, tôi lại phải tìm cách khác để kết thúc. Chỉ sợ rằng cũng chẳng khá hơn 2 cây thuốc Zet là mấy.
Sưu tầm


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét